Thuyền viễn xứ

Ra khơi sương khói một chiều
Thuỳ dương rũ bến tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang

Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi! Câu hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người

Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa

Lệ nhoà như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi

Hai bờ sông cách biệt rồi
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân hành
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa

Biết bao thương nhớ cho vừa
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường… lại đi…


Huyền Chi (Hồ Thị Ngọc Bút)
(1952)

Bài thơ đã được Nhạc sỹ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát cùng tên với phần lời như sau:

Chiều nay sương khói lên khơi
Thùy dương rũ bến tơi bời
Làn mây hồng xa ráng trời
Bến Ðà Giang, thuyền qua xứ người

Thuyền ơi viễn xứ xa xôi
Một lần qua giạt bến lau thưa
Hò ơi giọng hát thiên thu
Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngân về

Nhìn về đường cố lý, cố lý xa xôi
Ðời nhịp sầu lỡ bước, bước hoang mang rồi
Quay lại hướng làng
Ðà Giang lệ ướt nồng
Mẹ già ngồi im bóng
Mái tóc sương mong con bạc lòng

Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người

Mịt mù sương khói lên hương
Lũ thùy dương rũ bóng ven sông
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường...

Bài hát được nhiều ca sỹ thể hiện, xong, thành công nhất phải nói đến giọng ca của nữ ca sỹ Lệ Thu

Chẳng biết yêu nhau phải những gì?

Năm đã qua rồi, trong lớp học
Tôi nghe Uyển đọc bài thi
Hai ta trẻ lắm tình thơ dại
Chẳng biết... yêu nhau phải những gì?

 Nguồn: Thi ca Việt Nam chọn lọc - Thơ tình Nguyễn Bính, Kiều Văn, NXB Đồng Nai, 2005

Bướm nói điêu

Em thấy đời em trống trải nhiều
Vì đời em chả có ai yêu
Đời em là một vườn hoa nở
Bướm hẹn về, rồi bướm nói điêu...

Nguồn: Thi ca Việt Nam chọn lọc - Thơ tình Nguyễn Bính, Kiều Văn, NXB Đồng Nai, 2005

Bóng bướm

 

Cành dâu cao, lá dâu cao
Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em.
Anh đi đèn sách mười niên
Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành. 

Cành dâu xanh, lá dâu xanh
Một mình em hái, một mình em thương.
Mới rồi mãn khoá thi hương
Ngựa điều, võng tía qua đường những ai?

 

Nguồn: Thi ca Việt Nam chọn lọc - Thơ tình Nguyễn Bính, Kiều Văn, NXB Đồng Nai, 2005

Bên hồ

 

Lá rơi theo gió lá bay
Bên hồ, ta đứng đắm say nhìn hồ.
Sương mai đây có trắng mờ
Như còn lưu luyến đôi bờ cây xanh.
Xa trên mặt nước mông mênh
Buông thuyền, cô gái nghiêng mình hái sen.

Bắt gặp mùa thu

Xơ xác hồ sen đã nhạt hương
Bên song hoa lựu cũng phai hường
Sớm mai lá úa rơi từng trận
Bắt gặp mùa thu khắp nẻo đường

Tóc liễu hong dài nỗi nhớ nhung
Trăng nghiêng nửa mái gội mơ mòng
Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ
Biết lạc về đâu lòng hỡi lòng

Thu về sông núi bỗng tiêu sơ
Cây rũ vườn xiêu, cỏ áy bờ
Xử nữ đôi cô buồn tựa cửa
Nghe mùa gió lạnh cắn môi tơ

Sương phủ lưng đồi rặng núi xa
Thương ôi! Lữ khách nhớ quê nhà
Mấy thu mưa gió ngoài thiên hạ
Vườn cũ còn chăng cúc nở hoa?

Cha già ngừng chén biếng ngâm thơ
Đưa mắt nhìn theo hút dặm mờ
Xe ngựa người về tung cát bụi
Con mình không một lá thư đưa

Nghìn lạy cha già lượng thứ cho
Trót thân con vướng nợ giang hồ
Lòng son bán rẻ vào sương gió
Lãi được gì đâu? Đã mấy thu!

Một chút công danh rất hão huyền
Và dang dở nữa cuộc tình duyên
Thu sang, quán lẻ con đăm đắm
Rõi bóng quê nhà mắt lệ hoen.

 Nguồn: Nguyễn Bính - thơ, Hoàng Hồng tuyển chọn, NXB Văn Học, 2010, tr. 144




Bài thơ vần Rẫy


Nhớ ngày tôi vào chơi Hà Tiên
Chiều chiều cùng chị về trong Rẫy
Đường mòn, bóng nhạt soi tà tà
Biển khơi, gió mặn thổi hây hẩy

Giậu thưa, rau muống loe màu xanh
Bờ vắng, chim cu ồn tiếng gáy
Thân cau thương nhớ ai gầy mòn
Tay chuối đợi chờ ai ve vẩy...
Hoa tươi gặp gió tha hồ rung
Trái chín gần tay tự do hái
Đời người đã thong thả thế ru?
Đời người đã sung sướng đến vậy:

Vườn cây, gió thổi lộng muôn cành
Nhà cỏ, trăng soi vàng nửa mái.
Thềm trăng, trải chiếu ngồi song song
Bàn chuyện Tam Quốc cười sảng khoái.
Khương Duy mật to như trứng gà
Mã Siêu mặt đẹp như con gái
Mê gái cửa thành giết bố nuôi¹
Vì nước qua thuyền giành chúa dại
Xót anh, may áo tang ba ngày
Nhớ nghĩa, đường cùng thả giặc chạy
Vận trời thế đất đang chông chênh
Thiên hạ chia ba, ai thắng bại?
Ai ngờ ông trời làm trò đùa
Cả ba chân vạc theo nhau gẫy.

Dần dà nói đến chuyện nhân duyên
Chị có cô cháu tuổi mười bảy
Tóc dài chấm gót má hồng tươi
Mi vòng cánh cung mắt đen láy
Chị ơi! trôi nổi là thân tôi
Cánh buồm bạt gió trôi hồ hải
Than ôi! không có giá liên thành
Để đổi cho tròn viên ngọc ấy!

Xứ người lần lữa gót phiêu linh
Quê cũ cha anh hết trông cậy.
Tấm thân bảy thước chửa ngang tàng
Khói lửa bốn trời đã bốc dậy.
Con thuyền dầu lạc hướng phương nào
Vẫn nhớ ai người nơi tuyệt tái!

Chừng nào mới lại vào Hà Tiên
Chiều chiều cùng chị về trong Rẫy?
Chắc chẳng bao giờ nữa, chị ơi:
“Hoa lưu động khẩu ưng trường tại...”


Bài thơ này được thấy trong tập tuỳ bút của Mộng Tuyết (Thất tiểu muội), nhan đề Dưới mái trăng non, NXB Mạc Lâm, Yễm Yễm Thư Quán, 72D, Trần Văn Thạch, Sài Gòn tổng phát hành.

¹ Câu này có lẽ tác giả nhầm với Lã Bố mê Điêu Thuyền mà giết Đổng Trác

Bài thơ quê hương


Trải nghìn dặm trời mây bạn tới.
Thăm quê tôi, tôi rất đỗi vui mừng!
Bạn nán lại cùng tôi thêm buổi nữa.
Để tôi xin kể nốt chuyện quê hương.

...Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang...”
Có cô Tấm náu mình trong quả thị,
Có người em may túi đúng ba gang.

Quê hương tôi có ca dao tục ngữ,
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi.
Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ,
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi.

Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất
“Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng
Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc.
Theo người đi cứu nước chống xâm lăng.

Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu
Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa, trả thù chung.
Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến,
Hưng Đạo vương đã mở hội Diên Hồng.

Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm,
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo.
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”.
Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”.

Quê hương tôi có Trường Sơn một dải,
Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang
Có Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm.
Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng.

Quê hương tôi có sầu riêng, măng cụt
Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son.
Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu,
Cam xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon.

Cánh đồng nào cũng chôn vàng giấu bạc,
Bờ biển nào cũng chói ngọc ngời châu.
Có thanh quế ngửi qua là khỏi bệnh,
Có cây lim đóng cả một thân tầu.

Quê hương tôi có những người con gái
“Một ngày hai bữa cơm đèn...”
Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm,
Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên.

Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát;
Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ.
Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng,
Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa.

Khi có giặc những tre làng khắp nước,
Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông,
Những trai gái thôn Đông, xóm Bắc
Thoắt vươn vai thành những anh hùng...

Quê tôi đó - bạn ơi! - là thế đó.
Mà nghìn năm rặt những tiếng kêu thương
Sung sướng làm sao! Bỗng một ngày: có Đảng
Có Bác Hồ, làm sống lại quê hương.

Đánh Nhật, đuổi Tây cứu dân, dựng nước
Hai mươi năm kể biết mấy công trình!
Và từ đây, núi sông và cuộc sống.
Và quê hương mới thực sự của minh.

Cuộc đời mới con người cũng mới,
Khắp bốn phương lộng lẫy ánh sao cờ,
“Đoàn quân Việt Nam đi... chung lòng cứu quốc...”
Đầu ngẩng cao từ cách mạng mùa thu.

Những xiềng xích nghìn năm đều bẻ gãy.
Những bài ca điệu múa lại vui tươi.
Những trận khóc đêm dài không có nữa.
Thành thị nông thôn rộn rã tiếng cười.

Trong luỹ tre xanh vui mùa hợp tác,
Mái ngói nhô lên như những nụ hoa hồng.
Chung ruộng, chung trâu, chung lòng, chung sức
Chung con đường gặt lấy ấm no chung.

Trong xưởng máy tưng bừng như đám hội.
Những chủ nhân là chính những công nhân.
Tiếng máy reo chen tiếng cười tiếng hát,
Chẳng còn đâu tiếng chủ thét, cai gầm!

Những nhà thơ được tự do ca ngợi,
Quê hương. Tổ quốc, con người...
Và đời sống khỏi túng, nghèo, đói, khổ.
Khỏi bị ai khinh rẻ, dập vùi!

Đời trước thường mơ chuyện tiên, chuyện Phật,
Truyện thiên đường trong những cõi hư vô...
Đời nay dựng thiên đường trên mặt đất,
Dựng mùa xuân trong tất cả bốn mùa.

Khi con người được tự do giải phóng.
Đất rộng hơn mà trời cũng xanh hơn.
Quả trên cành cũng thêm ngon, thêm ngọt,
Hoa trong vườn cũng thêm sắc, thêm hương.

Và ý nghĩa những ca dao, tục ngữ
Ngày càng thêm thắm thiết, ngọt ngào.
Và “Truyện Kiều” mới có chân giá trị,
Và Nguyễn Du mới thành đại thi hào.

Thửa ruộng cũ cấy thêm mùa lúa mới,
Khung trời quê mọc những nóc lò cao.
Dây “cao thế” đã chăng dài khắp nẻo,
(Xóm làng tôi điện sẽ át trăng sao).

Những gỗ tốt đã dựng câu lạc bộ,
Gạo tám xoan thơm bếp lửa nhân dân.
Những cô Tấm tự tay xây hạnh phúc
Chẳng phải gian nan hoá kiếp mấy lần.

Và lớp lớp những anh hùng xuất hiện.
Sức thanh niên: sức Phù Đổng là đây!
Đẩy biển lùi ra, ngăn sông đứng lại,
Khẩu súng trường cũng hạ nổi máy bay.

Hội Diên Hồng thôn xã nào cũng mở,
Chuyện “kháng chiến trường kỳ” ai cũng nhớ nhập tâm.
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”
Câu ấy giờ đây đã đúng cả trăm phần.

Đảng cùng dân đã viết thêm lịch sử,
Lửa Điện Biên sáng dậy cả trăm năm.
Lửa Ấp Bắc, Chu Lai cũng bừng rực rỡ,
Lửa chiến công đang chói lọi miền Nam.

Khi có Đảng, có Bác Hồ lãnh đạo;
Có truyền thống cha ông để lại tự bao đời.
Thì đánh Mỹ nhất định là phải thắng
Chuyện ấy, quê tôi, thành chuyện dĩ nhiên rồi.

***

Câu chuyện quê tôi, sơ sài mấy nét.
Bạn trở về xin kể mọi người hay.
Riêng phần tôi có thơ này tặng bạn,
Tặng quê mình, nhân dịp tết năm nay.

Tết Bính Ngọ, 1966

Báo Văn nghệ Nam Hà, số Tết Bính Ngọ (1966), trang 3

Tây Tiến

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Quang Dũng

Phù Lưu Chanh, 1948

Anh về quê cũ

Anh về quê cũ: thôn Vân
Sau khi đã biết phong trần ra sao.
Từ nay lại tắm ao đào
Rượu dâu nhà cất, thuốc lào nhà phơi.
Giang hồ sót lại mình tôi
Quê người đắng khói, quê người cay men.
Nam Kỳ rồi lại Cao Miên
Tắm trong một cái biển tiền người ta...
Biển tiền, ôi biển bao la
Mình không bẩn được vẫn là tay không...
Thôn Vân có biếc, có hồng
Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều.
Đê cao có đất thả diều
Trời cao lắm lắm có nhiều chim bay.
Quả lành nặng trĩu từng cây
Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen.
Hiu hiu gió quạt, trăng đèn
Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi.
Ăn gỏi cá, đánh cờ người
Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân.

Ơi thôn Vân, hỡi thôn Vân!
Phương nào kết dải mây Tần cho ta
Từ nay, khi nhớ quê nhà
Thấy mây Tần biết đó là thôn Vân.

Ơi thôn Vân, hỡi thôn Vân!
Anh em ly tán, lầu dần thành ra,
Không còn ai ở lại nhà,
Hỏi còn ai nữa? Để hoa đầy vườn,
Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn,
Anh về quê cũ có buồn không anh?


1942

Bạch đào

Tình cờ không hẹn bỗng mà nên
Một buổi đầu năm tết Kỷ Hợi
Có năm người bạn bến sông Hoàng
Gặp nhau uống rượu mừng năm mới
Chuyện thơ chuyện phú, chuyện non sông
Chuyện trước chuyện sau thật sôi nổi
Bỗng nhiên Hiếu Lang vỗ đùi khoe:
Đệ có cây đào hoa mới bói
Giống đào thật quý nhất xưa nay
Cánh trắng, bông to, sương tuyết gội...
Chợt nghe hoa quý nở vườn xuân
Bỏ ngay câu chuyện, lòng phơi phới
Nửa đêm đội mưa ra đi ngay
Quản chi nhà xa đường ướt lội
Như có người yêu hé cửa chờ
Như có bạn cũ đốt trầm đợi
Nhớ lại thời xưa Bất thượng thuyền
Lý Bạch nằm say không trở gối
Vì hoa nên phải đánh đường tìm
Đây phải chín tầng đem chiếu gọi

Đến nơi mở cửa, đốt đèn lên
Kẻ trước người sau bước vồi vội
Ra mé Tây Viên, tới gốc đào
Lặng ngắm hoa cười, im chẳng nói
Tất cả cùng chung nhớ một câu:
Hoa lưu động khẩu ưng trường tại
Khách nhân cao hứng đề thơ này.


Đề tại Tây Viên, phố Vị
Đêm mồng hai tết, năm Kỷ Hợi (1959)

Ái khanh hành

(trích)

... Không phải gặp em từ buổi ấy
Hình như gặp em từ ngàn xưa
Lòng em thương anh không có bến
Tình anh yêu em không có bờ

Viết viết có đến nghìn trang giấy
Làm ra có đến nghìn bài thơ
Tương tư một đêm năm canh chẵn
Nhớ nhung một ngày mười hai giờ.

Chao ơi!
Em ngon như rau cải
Em ngọt như rau ngót.
Em giòn như cùi dừa.
Em hiền như nước mưa
Em nhổ nước bọt xuống mặt biển
Mặt biển thơm lên hai mươi bốn giờ
Em là con Tướng trong tam cúc
Anh là quân Xe trong bàn cờ
Ví chăng có một nước Tình ái
Em là Hoàng Hậu, anh làm Vua.


Trường huyện

Học trò trường huyện ngày năm ấy,
Anh tuổi bằng em, lớp tuổi thơ.
Những buổi học về không có nón,
Đội đầu chung một lá sen tơ.

Lá sen vương vấn hương sen ngát,
Ấp ủ hai ta, chút nhuỵ hờ
Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc,
Theo về tận cửa mới tan mơ.

Em đi, phố huyện tiêu điều lắm,
Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi.
Mà đến hôm nay anh mới biết,
Tình ta như chuyện bướm xưa thôi!


1938

Bảy chữ


Mây trắng đang xây mộng viễn hành,
Chiều nay tôi lại ngắm giời xanh,
Giời xanh là một tờ thư rộng,
Tôi thảo lên trời mấy nét nhanh.

Viết trọn năm dài theo vách đá,
Bốn bề lá đổ ngợp hơi thu,
Vừa may cánh nhạn về phương ấy,
Tôi gửi cho nàng bức ngọc thư.

Xe ngựa chiều nay ngập thị thành,
Chiều nay nàng bắt được giời xanh,
Đọc xong bảy chữ thì thương lắm:
“Vạn lý tương tư, vũ trụ tình”.


Bắc Giang, 1940

Xuân Hạ Thu Đông

春夏秋冬
崔顥

春遊芳草地
夏賞綠荷池
秋飲黃菊酒
冬吟白雪詩.

Xuân Hạ Thu Đông
Thôi Hiệu

Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi.